BỘT CÁ BIỂN LÀ GÌ
Bột cá biển nguyên chất là một
sản phẩm được làm từ cá nguyên con, xương và phụ phẩm từ cá sau chế biến.
Bột cá biển có màu nâu sau khi nấu chín, ép và sấy khô.
Bột cá biển biển phải có chỉ số như độ
đạm, độ tươi, tro, độ ẫm luôn trong mức giới hạn. Bột cá biển là một trong
những nguồn nguyên liệu tốt nhất trong sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và
thủy hải sản. Đạm trong Bột cá biển luôn có ưu điểm hơn các loại đạm
khác là dễ tiêu hóa và các axit amin thiết yếu.
Bột cá biển là một loại
sản được chế biến từ thịt cá, cá tạp, cá nguyên con, đầu và xương cá hay các
phụ phẩm khác từ quá trình chế biến cá. Hiện tại ở Việt Nam có hai loại bột cá
biển chủ yếu là bột cá biển từ nguyên liệu cá biển (cá nước mặn) và bột cá biển
từ nguyên liệu cá Tra (cá nước ngọt). Tùy theo nguyên liệu chế biến sẽ thu được
hai loại sản phẩm bột cá biển. Các phụ phẩm cá kém chất lượng chúng ta thu được
bột cá biển dùng làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy hải
sản. Với các loại cá có giá trị cao ta có được bột cá biển thực phẩm. Cùng
với sự phát triển của công nghệ chế biến thủy sản và nuôi trồng thủy hải sản,
công nghệ chế biến bột cá biển ngày càng phát triển. Từ việc sản xuất và chế
biến thủy sản tạo ra nguồn nguyên liệu phế phẩm dồi dào cho ngành sản xuất bột
cá biển.
Bột cá biển là sản phẩm
giàu đạm, chứa từ 55% đến 67% là đạm tổng, trong số đó đạm tiêu hóa và hấp thu
là 80-95% tùy thuộc vào công nghệ chế biến và nguyên liệu ban đầu. Trong khi đó
đạm tiêu hóa của các nguồn từ thực vật chỉ đạt 30-40%.
Đạm của bột cá biển là
đạm hoàn hảo, vì chúng chứa đủ các axit amin không thay thế và có tỉ lệ cân đối
với các axit amin. Bột cá biển có hệ số tiêu hóa cao bỡi lẽ chứa nhiều đạm dễ
hòa tan và hấp thu.
Bột cá biển là thành
phần có giá trị nhất trong thức ăn thuỷ sản và, xa hơn nữa, nó là thành phần
chủ yếu trong khẩu phần của cá săn mồi và tôm. Nó có vị ngon và chất lượng rất
tốt, cung cấp đủ prôtêin với các axít béo thiết yếu. Nếu xét về khía cạnh kinh
tế thì nó là nguồn cung cấp prôtêin duy nhất trong thức ăn thuỷ sản. Đây cũng
là trường hợp tương tự cá hồi. Nó là một nguồn năng lượng tốt và dầu của nó
cũng có các thành phần tương ứng như vitamin, khoáng và các yếu tố dạng vết
khác. Tuy nhiên nó có hàm lượng phốt pho cao và dễ gây ô nhiễm. Bột cá biển
chất lượng cao là chất hoạt động tốt trong thức ăn thuỷ sản. Bột cá giúp tăng
sức kháng bệnh (đối với thức ăn gia súc) đặc biệt trong giai đoạn đầu đời. Điều
này cũng có thể đúng với thức ăn thuỷ sản.
Bột cá biển chất lượng
cao đã có sự ứng dụng rộng rãi trong nuôi trồng thuỷ sản và về mặt thương mại
cũng có thể đạt được nếu kiểm soát được chất lượng nguyên liệu thô và điều kiện
chế biến một cách nghiêm ngặt. Theo đà tăng trưởng, nuôi trồng thuỷ sản thâm
canh sử dụng loại thức ăn thuỷ sản có chứa loại bột cá biển được sản xuất
chuyên biệt, được gọi là bột cá biển LT. Chúng được sản xuất bằng cách giữ thời
gian từ lúc khai thác đến lúc chế biến ngắn trong mức có thể; giữ tàu khai thác
sạch sẽ, bảo quản vật liệu thô bằng đá hoặ thông qua cấp đông và dùng nhiệt độ
thấp trong cả quá trình nấu và phơi khô của quá trình sản xuất bột cá biển mà
không làm tăng thời gian phơi khô. Bột cá biển LT có một số ưu điểm vượt trội
so với nhiều loại bột cá biển khác; cũng có một số ưu điểm tương tự đối với tôm
nhưng điều này chưa được kiểm chứng. Mặc dù bột cá biển LT đắt hơn rất nhiều so
với bột cá biển thông thường nhưng thức ăn đã được nâng cao hiệu quả chuyển hoá
khi thêm loại bột cá biển này vào, vì vậy giảm được chi phí thức ăn trên mỗi
đơn vị trọng lượng cơ thể.
Bột cá biển là loại
thức ăn tốt nhất cho cá xương và giáp xác, chất lượng nổi trội với hàm lượng
prôtêin cao. Tuy vậy, quá trình chế biến và lưu giữ kém sẽ làm giảm các amino
axít, ôxi hoá lipít và là nguyên nhân tạo ra các chất kháng dinh dưỡng như
histamin và dẫn xuất gizzerosin, chất ảnh hưởng đến cá nhưng có thể không ảnh
hưởng đến tôm – loài không có dạ dày kiểu tiết axít đúng nghĩa. Những chất này
và những amin khác đã được thảo luận nhiều bởi Pike và Hardy (1994). Chamberlin
(1993) lưu ý rằng cá hồi có sức chịu đựng kém đối với histamin và gizzerosin,
trong khi hầu như không có thông tin nào về ảnh hưởng của bột cá biển lên tất
cả các loài khác. Tuy nhiên, Pike và Hardy (1994) ở UK đã khẳng định việc sử
dụng bột cá biển bị hỏng, mốc với lượng cao histamin và tyramin, sẽ làm giảm
tốc độ tăng trưởng của tôm sú.
Việc bổ sung bột cá biển
váo thức ăn thuỷ sản cũng có một vài điểm khác biệt, tuỳ thuộc vào loài, giai
đoạn phát triển của loài sẽ ứng với các khẩu phần và các thành phần dinh dưỡng
tương ứng. Tỷ lệ thêm vào phổ biến, hiện tại giới hạn từ mức thấp 5 % trong
thức ăn của cá da trơn đến cao 60 % trong thức ăn của cá biển. Nói chung, phần bột
cá biển thêm vào đang được trông đợi sẽ giảm đến năm 2000 nhưng vẫn sẽ còn đến
40 % hoặc nhiều hơn cho tất cả các loài cá xương ngoại trừ cá hồi và cá da
trơn. Tỷ lệ thêm vào cho cá hồi (30 %) và tôm (25 %) không hy vọng đạt được
trong giai đoạn này. Tuy vậy, nó còn tuỳ vào từng trường hợp, tỷ lệ thêm vào
này có thể tăng lên trong nuôi trồng thủy sản thâm canh nhưng ở mức độ tham
canh ít hơn, nó có thể được giảm xuống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét